Lịch sử Bislama

Trong thời kỳ được gọi là Blackbirding, vào thập niên 1870 và thập niên 1880, hàng trăm ngàn dân các hòn đảo Thái Bình Dương (nhiều người trong số họ từ New Hebrides (nay là quần đảo) Vanuatu) đã bắt làm nô lệ và bị buộc phải làm việc trên các đồn điền, chủ yếu ở Queensland, AustraliaFiji.[3] Với tình trạng nhiều ngôn ngữ được nói ở các đồn điền, một ngôn ngữ bồi được hình thành, theo đó kết hợp từ vựng tiếng Anh với các cấu trúc ngữ pháp đặc trưng của ngôn ngữ trong khu vực. Các đồn điền không chỉ tạo ra một ngôn ngữ bồi là Bislama, mà còn có tiếng Tok Pisin của Papua New Guinea và Pijin của quần đảo Solomon.

Ngôn ngữ bồi này bắt đầu được phổ biến ra quần đảo Vanuatu vào thế kỷ 20, khi những người sống sót sau thời kỳ Blackbirding bắt đầu quay trở lại hòn đảo quê hương của mình: kiến ​​thức về ngôn ngữ bồi này sẽ tạo điều kiện để họ giao tiếp không chỉ với thương nhân và những người định cư châu Âu, mà còn giữa các nhóm dân bản địa của các đảo trong quần đảo. Đây là cách Bislama được tạo, dần dần phát triển một cách riêng biệt với những tiếng bồi khác ở Thái Bình Dương.

Vì Vanuatu là một trong những quốc gia có tỷ lệ ngôn ngữ trên dân số cao nhất thế giới (113 ngôn ngữ trên một diện tích chỉ 12.200 km²), tiếng Bislama tỏ ra hữu ích để trở thành một ngôn ngữ chung để giao tiếp giữa ni-Vanuatu (người sống tại đô thị), cũng như với cả người nước ngoài. Bên cạnh Bislama, hầu hết các ni-Vanuatu cũng biết ngôn ngữ bản địa của họ, ngôn ngữ bản địa của cha và/hoặc mẹ, và người hôn phối của họ. Ngôn ngữ chính thức để giảng dạy là tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

Hơn một thế kỷ qua, Bislama đã phát triển một cách tự do cae trong văn nói và văn viết. Chỉ gần đây (1995, với ấn bản thứ hai năm 2004) mới có từ điển đầu tiên của tiếng Bislama[4] được xuất bản, và điều này đã giúp tạo ra chính tả thống nhất cho tiếng Bislama.